Quách Tấn

Khánh Hòa là xứ trầm hương

Nói đến Quách Tấn (1910-1992), người ta biết đến ông là một thành viên của nhóm “Bàn thành tứ hữu” gồm những tên tuổi đất Bình Định nổi danh trên văn đàn với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê và Quách Tấn.

Trong sự nghiệp cầm bút của mình, Quách Tấn để lại một di sản tác phẩm khá đa dạng. Nói về thơ, ông có Một tấm lòng (1939), Mùa cổ điển (1941)…

Thơ Quách Tấn được Hoài Thanh, Hoài Chân khen trong Thi nhân Việt Nam là “đã tìm được những lời thơ rung cảm chúng ta một cách thấm thía”. Trong khi ấy Nguyễn Hiến Lê nhận định là “Quách Tấn chuyên về thơ luật, tôi cho rằng từ đầu thế kỷ đến nay không ai có công với thơ luật bằng ông”.

Về văn, ông có Trăng ma lầu Việt (1943, 1947); Nét bút giai nhân… cùng nhiều tác phẩm dịch thuật khác. Điều thú vị là ngòi bút của ông không chỉ quanh nơi văn thơ, mà còn mở rộng ra cả mảng địa phương chí khi Quách Tấn để lại cho đời Nước non Bình Định(1968) và Xứ trầm hương (1969).

Ở đây riêng nói về tác phẩm Xứ trầm hương, là tác phẩm được Quách Tấn viết về Khánh Hòa, vùng đất ông xem là quê hương thứ hai sau bản quán Bình Định. Với tác phẩm này, tác giả tâm sự lý do ra đời đứa con tinh thần trong “Lời thưa” như sau:

“Ghi chép lại vì nhận thấy đẹp, thấy hay, thấy thú, thấy đáng yêu đáng quý, đáng ra công gìn giữ cho đoàn hậu tiến có lòng cùng nước cùng non. Ghi chép lại hầu mong bạn phương xa ghé mắt rồi đem lòng thương tưởng đến Khánh Hòa mà tôi kính yêu như bà Nghĩa Mẫu, vì nuôi nấng tôi gần nửa đời người”.

Việc ra đời tác phẩm này, lại được tác giả giãi bày thêm cơn cớ. Số là Xứ trầm hương thực tế là sự “nhuận chính và bổ túc” từ tập tài liệu “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa”. Tập tài liệu ấy, được tác giả ấp ủ khi còn làm việc tại Tòa sứ Nha Trang thời gian 1935-1945.

Bởi cái lẽ, khi làm việc tại tòa sứ, Quách Tấn có nhiều dịp làm thông ngôn cho các nhà du lịch, khảo cổ ngoại quốc. Nhờ đó mà bước chân ông đi được nhiều nơi, biết nhiều chỗ, nghe nhiều chuyện để từ đó “Đôi nét về tỉnh Khánh Hòa” thành hình năm 1962.

Xứ trầm hương ra đời cuối năm 1969 do NXB Lá Bối ấn hành và kể từ đó, tác phẩm vẫn tỏa “hương trầm” giá trị đến nay.